Biến chứng Phá_thai

Các nguy cơ với sức khỏe của việc phá thai tùy thuộc vào việc liệu quy trình được sử dụng có an toàn hay không. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa phá thai không an toàn là việc phá thai được thực hiện bởi những cá nhân không có kỹ năng, với dụng cụ nguy hiểm, hay tại những cơ sở không vệ sinh.[33]

Phá thai an toàn

Phá thai, khi được thực hiện tại các quốc gia phát triển nơi việc phá thai là hợp pháp, nằm trong số những quy trình y tế an toàn nhất.[2][34] Tại Hoa Kỳ, nguy cơ tử vong bà mẹ do phá thai là 0.567 trên 100,000 ca, khiến việc phá thai an toàn hơn xấp xỉ 14 lần so với sinh đẻ (7.06 trường hợp tử vong bà mẹ trên 100,000 ca sinh sống).[35] Nguy cơ tử vong liên quan tới phá thai gia tăng với độ tuổi thai, nhưng vẫn thấp hơn tỷ lệ sinh đẻ ít nhất cho tới tuần tuổi thai thứ 21.[36][37]

Hút chân không ở ba tháng thai kỳ đầu tiên là phương pháp phá thai phẫu thuật an toàn nhất, và có thể được thực hiện trong một cơ sở chăm sóc ban đầu, phòng phá thai, hay bệnh viện. Biến chứng hiếm khi xảy ra và có thể gồm cả đâm xuyên tử cung, nhiễm trùng xương chậu, và những sản phẩm phụ còn lại của quá trình mang thai đòi hòi một lần xử lý thứ hai nữa để điều trị.[38] Các biện pháp kháng sinh ngăn ngừa (như doxycycline hay metronidazole) thường được thực hiện trước khi phá thai có lựa chọn,[39] bởi chúng hạn chế rất nhiều nguy cơ nhiễm trùng tử cung sau phẫu thuật.[40] Những biến chứng từ việc phá thai ở ba tháng thai kỳ thứ hai tương tự những biến chứng với phá thai ở ba tháng đầu, và phụ thuộc vào phương pháp được lựa chọn. Một tổng kết năm 2008 của Cochrane Library cho thấy dilation and evacuation an toàn hơn những biện pháp khác cho việc phá thai ở ba tháng thứ hai.[41]

Phá thai y tế với mifepristonemisoprostol có hiệu quả tới 49 ngày tuổi thai.[42] Nó đã được dùng cho những phụ nữ mang thái tới 63 ngày tuổi, tuy nhiên có sự gia tăng nguy cơ không thành công (đòi hỏi phá thai y tế).[43] Phá thai y tế thường được coi là an toàn như phá thai phẫu thuật trong ba tháng đầu, nhưng gây đau đớn hơn và có tỷ lệ thành công thấp hơn (đòi hỏi phá thai phẫu thuật).[44] Tổng thể, nguy cơ nhiễm trùng tử cung với phá thai y tế thấp hơn phá thai phẫu thuật,[42] dù trong năm 2005 bốn người đã chết sau phá thai ý tế được báo cáo là do nhiễm trùng Clostridium sordellii.[45] Vì thế, một số cơ sở thực hiện phá thai đã bắt đầu sử dụng các biện pháp kháng sinh ngăn chặn trước khi thực hiện phá thai y tế.[46]

Phá thai không an toàn

Bài chi tiết: Phá thai không an toàn

Trái lại, phá thai không an toàn là một nguyên nhân chính gây thương tật và tử vong với phụ nữ trên toàn thế giới. Dù dữ liệu không chính xác, ước tính xấp xỉ 20 triệu vụ phá thai không an toàn được thực hiện mỗi năm, với 97% trong số đó diễn ra tại các quốc gia đang phát triển.[2] Phá thai không an toàn được cho là dẫn tới cái chết của 68,000 người và khiến hàng triệu người khác bị thương tật hàng năm.[2] Vị thế pháp lý của việc phá thai được cho là đóng một vai trò chính trong số lượng các vụ phá thai không an toàn.[47][48] Ví dụ, việc hợp pháp hóa việc phá thai năm 1996 ở Nam Phi lập tức có hiệu quả tích cực trên sự giảm sút số vụ biến chứng liên quan tới phá thai,[49] với số ca tử vong liên quan tới phá thai giảm hơn 90%.[50] Các nhóm như Tổ chức Y tế Thế giới đã ủng hộ một cách tiếp cận sức khỏe cộng đồng để giải quyết việc phá thai không an toàn, nhấn mạnh tới vị thế pháp lý của việc phá thai, việc huấn luyện nhân viên y tế, và đảm bảo tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản.[48]

Ung thư vú

Dù một số nghiên cứu đã đưa ra một sự liên quan giữa phá thai và bệnh ung thư vú, bằng chứng tốt nhất có được ở thời điểm hiện tại không ủng hộ một mối liên quan như vậy. Các cơ quan y tế lớn, gồm cả Tổ chức Y tế thế giới,[51] Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ,[52] the American Cancer Society,[53]Trường Cao đẳng Sản khoa và Phụ khoa Hoàng gia,[54] đã kết luận dựa trên các cơ sở bằng chứng hiện có rằng phá thai không gây ra ung thư vú.[55][56] Hiện tại, ý tưởng cho rằng có một mối liên kết giữa phá thai có chủ đích và ung thư vú chủ yếu được ủng hộ bởi các nhóm pro-life.[55]

Sức khỏe tinh thần

Không cuộc nghiên cứu khoa học nào từng chứng minh phá thai là một nguyên nhân ảnh hưởng tới sức khỏe tâm thần của dân chúng. Tuy nhiên có các nhóm phụ nữ có thể có nguy cơ cao hơn khi đối mặt với các vấn đề và sự buồn bã sau khi phá thai.[57] Một số yếu tố trong cuộc sống của người phụ nữ, như sự gắn bó tình cảm với việc mang thai, thiếu hỗ trợ từ xã hội, tình trạng ốm yếu tin thần có sẵn, và những quan điểm bảo thủ về việc phá thai làm gia tăng khả năng có những trải nghiệm tiêu cực sau khi phá thai.[58] Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) đã kết luận việc phá thai trong ba tháng đầu không dẫn tới sự gia tăng các vấn đề về sức khỏe tinh thần,[59] và nghiên cứu thêm khác đã kết luận rằng các cuộc phá thai muộn hơn cũng không có khác biệt.[60]

Một số hiệu ứng tiêu cực về tâm thần gắn với việc phá thai đã được một số người ủng hộ pro-life coi là một điều kiện riêng biệt được gọi là "hội chứng sau phá thai". Tuy nhiên, sự tồn tại của "hội chứng sau phá thai" không được ghi nhận bởi bất cứ tổ chức tâm lý hay y tế nào.[61][62][63]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phá_thai http://www.racgp.org.au/afp/200609/11015 http://www.csis-scrs.gc.ca/en/publications/comment... http://www.china.org.cn/english/2003/Mar/59194.htm http://civilliberty.about.com/od/gendersexuality/t... http://members.aol.com/abtrbng/lea.htm http://www.cbctrust.com/history_law_religion.php http://www.csmonitor.com/2006/0912/p01s04-woam.htm... http://www.diseasesdatabase.com/ddb4153.htm http://www.eturbonews.com/6052/thousands-women-n-i... http://books.google.com/?id=0BY0hx2l5uoC